Sau gần 5 năm triển khai Quyết định 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, những kết quả tích cực đã và đang được ghi nhận trên khắp các vùng cao của đất nước. Nhưng điều đáng nói hơn cả là sự cộng hưởng ngày càng rõ nét giữa ba trong những lực lượng nòng cốt: Bộ Công Thương, chính quyền địa phương và doanh nghiệp trong việc tạo nên động lực bền vững cho phát triển. Khi cả ba “bắt tay” một cách thực chất, bài toán vùng cao không còn là một thách thức đơn lẻ, mà là một cơ hội chiến lược cho phát triển toàn diện và bao trùm. |

Theo đánh giá của các chuyên gia, gần 5 năm qua, việc triển khai Chương trình 1719 đã mang lại nhiều kết quả vượt ngoài kỳ vọng. Trên phương diện kinh tế - xã hội, hàng nghìn hộ dân được tiếp cận mô hình kinh tế mới, nâng cao thu nhập; tỷ lệ hộ nghèo ở một số địa phương giảm đáng kể. Các hợp tác xã vùng cao từng bước trưởng thành cả về quy mô lẫn năng lực quản trị, nhiều sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn cao, vươn ra thị trường lớn. Đặc biệt, thị trường tiêu thụ đã được mở rộng đáng kể. Nhiều sản phẩm vùng cao, từ chè, gạo, mật ong đến các loại dược liệu quý đã xuất hiện tại hệ thống siêu thị, sàn thương mại điện tử và thậm chí tiếp cận thị trường quốc tế. Sự dẫn dắt của Bộ Công Thương, sự năng động của doanh nghiệp và sự chủ động của địa phương chính là chìa khóa tạo nên sự thay đổi này. Tuy nhiên, bức tranh vẫn còn những khoảng trống cần lấp đầy. Mối liên kết giữa Nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà nông ở nhiều nơi vẫn còn lỏng lẻo, thiếu cơ chế phối hợp chặt chẽ và ổn định. Chính sách hỗ trợ, nhất là về tín dụng, hạ tầng thương mại, logistics... vẫn còn mang tính dàn trải, chưa sát với đặc thù của từng vùng, từng nhóm dân tộc. Thị trường tiêu thụ, dù đã được mở rộng, nhưng chưa thực sự ổn định. Nhiều sản phẩm vẫn lệ thuộc vào thời vụ, đầu ra bấp bênh, dễ bị tổn thương khi có biến động. Điều này cho thấy cần thêm những cú hích chính sách và định hướng lâu dài, thay vì chỉ dừng lại ở các chương trình ngắn hạn. |
![]() |
Đối với lĩnh vực Công Thương, một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất là xây dựng hạ tầng chợ và đây cũng là hoạt động được Bộ Công Thương quan tâm, đẩy mạnh triển khai thời gian qua. Song hiện nay chợ ở khu vực đặc thù này còn nhiều khó khăn. TS Dương Văn Chiến - Chủ tịch Hiệp hội Chợ Việt Nam chia sẻ, việc các doanh nghiệp ngại đầu tư vào chợ không xuất phát từ chuyện thiếu vốn hay mô hình kinh doanh không hiệu quả. Nguyên nhân cốt lõi nằm ở cơ chế và chính sách chưa thật sự khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp. Nói rõ hơn, doanh nghiệp, hợp tác xã, hay tư thương hoàn toàn sẵn sàng đầu tư vào chợ, kể cả ở những khu vực khó khăn. Nhưng những rào cản về cơ chế, về sự quan tâm thực chất từ chính quyền sở tại và nhất là về tính nhất quán trong chính sách ưu đãi đã khiến họ ngần ngại. Đó là điều rất đáng tiếc. Vấn đề nằm ở chỗ: Dù Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, thông tư về phát triển và quản lý chợ, nhưng việc thực thi từ trung ương đến địa phương còn thiếu quyết liệt và thiếu thống nhất. Các luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch… lại có những quy định chồng chéo, thiếu tính kết nối, gây khó khăn cho quá trình chuẩn bị và triển khai dự án. TS Dương Văn Chiến lấy ví dụ, có những chợ cũ chỉ rộng 2.000 - 3.000m², khi quy hoạch lại, yêu cầu xây dựng theo mẫu chợ mới thì vướng ngay về mật độ xây dựng, chỉ được phép sử dụng 40%. Phần diện tích còn lại phải dành cho bãi đỗ xe, cây xanh, hạ tầng kỹ thuật như điện, nước, phòng cháy chữa cháy, xử lý môi trường… Dẫn đến thực tế là diện tích sử dụng còn lại để đầu tư kinh doanh bị thu hẹp, làm mất tính hiệu quả của dự án. |
![]() |
Đối với công tác xuất khẩu nông sản hiện cũng còn nhiều khó khăn. Ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cho biết, thách thức trong việc xuất khẩu nông sản của khu vực miền núi là dù đã tạo ra được các sản phẩm mang tính chất đặc thù, song quy mô sản xuất còn nhỏ và phân tán, dẫn đến chất lượng khó đồng đều. Yếu tố thứ hai là cơ sở hạ tầng để đáp ứng việc hỗ trợ xuất khẩu, ví dụ như các kho bãi, đường xá để đi vào các khu vực vùng trồng ở miền núi, hệ thống kho lạnh hoặc là cái phương tiện vận tải và đảm bảo nhiệt độ cũng còn thiếu và giá thành cao, khiến chi phí logistics cao lên. Một điểm khác là khâu tiếp thị, bao bì, đóng gói, nhãn mác chưa được đầu tư xứng đáng và có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đưa sản phẩm ra nước ngoài. |

Đối với các doanh nghiệp sản xuất khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, có lẽ, đầu ra cho sản phẩm là điều trăn trở nhất. Bà Lê Thị Nga – Tổng Giám đốc Công ty CP Ong Tam Đảo (Honeco) chia sẻ: “Tôi chỉ mong các hệ thống phân phối “mở lòng, mở quầy, mở cơ hội”. Mở lòng để hiểu sản phẩm miền núi không chỉ là món hàng mà là giấc mơ, là tâm huyết, là sinh kế của hàng ngàn người dân bản địa. Mở quầy kệ ở những vị trí đẹp, không né tránh những ngành hàng có giá trị thấp nhưng ý nghĩa cao. Và mở cơ hội để doanh nghiệp như chúng tôi không phải “xếp hàng” mãi mới được đứng vào sân chơi lớn”. Điều này cho thấy, dù đã được không ít kênh phân phối "bắt tay" tiêu thụ sản phẩm, song bài toán đầu ra một cách ổn định, bền vững cho các doanh nghiệp vẫn còn là bài toán khó. Hàng Việt Nam, trong đó có sản phẩm của bà con đồng bào còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. |
![]() |
Về phía địa phương, trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Nguyễn Bá Chính – Giám đốc Sở Công Thương Thái Nguyên đề xuất Bộ Công Thương, UBND tỉnh các cấp ngành tiếp tục quan tâm cân đối, bố trí nguồn vốn từ ngân sách Trung ương và địa phương lồng ghép từ các chương trình mục tiêu quốc gia để đầu tư xây dựng hạ tầng thương mại, ưu tiên các địa bàn còn khó khăn. Bên cạnh đó, quan tâm nghiên cứu và hỗ trợ đầu tư xây dựng các trung tâm logistics quy mô nhỏ, kho bảo quản nông sản đạt chuẩn và chợ vùng cao hiện đại. Đồng thời, cần lồng ghép các điểm trưng bày - giới thiệu sản phẩm OCOP và đặc sản địa phương nhằm kết nối hiệu quả với thị trường tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì triển khai các chương trình đào tạo ứng dụng công nghệ số cho thương nhân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung tập trung vào kỹ năng khai thác hiệu quả các nền tảng như Zalo, Facebook, TikTok Shop, Shopee, Alibaba… Đồng thời, cần tích hợp với các chương trình chuyển đổi số nông thôn đang được triển khai, để đồng bào không bị bỏ lại phía sau trong dòng chảy thương mại số. “Đề nghịBộ Nông nghiệp và Môi trường cùng Bộ Công Thương phối hợp xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông minh về cung - cầu thị trường, giá cả và thị hiếu tiêu dùng theo vùng miền. Đây sẽ là công cụ quan trọng giúp người dân, hợp tác xã chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất, cung ứng hàng hóa kịp thời, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ bền vững” – ông Nguyễn Bá Chính đề xuất. |

Sau giai đoạn 1 được triển khai khá thành công, Chương trình 1719 giai đoạn 2026-2030 được kỳ vọng là thời kỳ của đầu tư chiều sâu, của liên kết bền chặt và của những cam kết lâu dài từ cả khu vực công và tư. Theo ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn – Phó Cục trưởng Cục Quản lý thị trường trong nước (Bộ Công Thương), để các giải pháp thực sự phát huy hiệu quả, cần đặt người dân làm trung tâm và doanh nghiệp làm động lực. "Muốn làm tốt, cần hiểu người dân cần gì, doanh nghiệp thiếu gì, thị trường đòi hỏi gì, từ đó thiết kế chính sách, hoạt động hỗ trợ cho trúng và đúng. Vai trò của Bộ là kết nối để không ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình thương mại hóa sản phẩm vùng cao”. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó chú trọng tới yếu tố văn hóa của sản phẩm. Phát triển thương mại điện tử và ứng dụng công nghệ số: Hỗ trợ đưa sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi lên sàn thương mại điện tử. Xây dựng và quảng bá thương hiệu dựa trên lợi thế đặc trưng của sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng tiêu chuẩn thị trường của các sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. |
![]() |
Đặc biệt, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các địa phương trong việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các tiểu dự án liên quan đến phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. . Ở góc độ chuyên gia chiến lược, TS. Nguyễn Minh Phong đề xuất cần có một “cơ chế thị trường đặc thù” cho vùng miền núi, gắn trách nhiệm lâu dài giữa doanh nghiệp và chính quyền. "Thương mại miền núi không thể áp dụng công thức chung với đồng bằng hay đô thị. Bộ Công Thương cần đóng vai trò định hướng, điều phối chính sách liên vùng, hỗ trợ tài chính, thông tin, đào tạo nhân lực và phát triển hạ tầng mềm như truy xuất, thương hiệu, số hóa…". Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ nhấn mạnh trong giai đoạn tới, ngành Công Thương cần chú trọng chuyển từ hệ sinh thái từ sản xuất gắn với tiêu thụ sang hệ sinh thái thị trường. Bởi giai đoạn tới, sau quá trình sắp xếp, sáp nhập tỉnh và tinh gọn bộ máy, cần xây dựng những chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị gắn với yêu cầu thị trường. Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân phải liên kết và hợp tác với nhau thì hàng hóa của khu vực này có thể đóng góp ngày một nhiều hơn vào trục nông sản xuất khẩu |
![]() |
“Khi ba lực lượng – Bộ Công Thương, doanh nghiệp và chính quyền địa phương cùng hành động với tinh thần trách nhiệm, sáng tạo và bền bỉ, những vùng đất từng là “vùng trũng” sẽ từng bước trở thành điểm sáng trên bản đồ kinh tế quốc gia” – chuyên gia Hoàng Trọng Thuỷ nói. Từ những lớp học thương mại điện tử giữa núi rừng Tây Bắc đến những gian hàng nông sản trên sàn thương mại điện tử quốc gia, từ những phiên chợ vùng cao đến các hội chợ quốc tế, có thể thấy dấu ấn ngành Công Thương ngày một rõ nét trong sự nghiệp phát triển bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đó không chỉ là những con số về sản lượng, doanh thu hay lượt truy cập trực tuyến mà là sự chuyển mình mạnh mẽ về tư duy, là tinh thần "không ai bị bỏ lại phía sau" được cụ thể hóa qua từng chương trình hành động. Chương trình 1719 không đơn thuần là một chính sách đầu tư hỗ trợ mà là ngọn gió lớn thổi bùng lên nội lực vùng cao, khơi dậy khát vọng vươn lên làm chủ cuộc sống. Trong ngọn lửa đó, ngành Công Thương chính là người giữ lửa, bền bỉ, sáng tạo và dấn thân. Khi tư duy thị trường thấm sâu vào từng nếp nghĩ của người dân, khi doanh nghiệp đồng hành cùng bà con trên hành trình chinh phục thị trường rộng lớn, và khi các chính sách được thực thi hiệu quả đến từng bản làng, đó chính là lúc vùng cao thực sự "thức giấc". |
Phương Lan Đồ họa: Hoàng Lan |