Số lượng chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn
Mặc dù được xác định là trụ cột trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng số lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ được công nhận tại Việt Nam hiện vẫn còn khá khiêm tốn.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho biết, tính đến nay Việt Nam có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, con số doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận chính thức lại thấp hơn nhiều.
Nguyên nhân xuất phát từ nhiều rào cản tồn tại lâu nay như cơ chế giao quyền sở hữu, sử dụng kết quả nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước còn nhiều thủ tục phức tạp, đặc biệt là việc đánh giá, định giá kết quả nghiên cứu giao cho doanh nghiệp còn khó khăn.
![]() |
Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: HH |
Những cơ chế, chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp khoa học công nghệ được quy định trong rất nhiều văn bản, từ luật cho đến nghị định. Nhưng việc triển khai thực thi trong thực tiễn còn nhiều vấn đề, đặc biệt là thủ tục ưu đãi về thuế, quyền sử dụng đất cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất sản phẩm khoa học công nghệ, cơ chế vay tín dụng hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh sản phẩm khoa học công nghệ xác nhận dự án đầu tư mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ… còn nhiều khó khăn.
Một nguyên nhân khác đến từ phía các doanh nghiệp. Mặc dù các cơ quan nhà nước đã cải thiện rất nhiều về mặt thủ tục để tạo thuận lợi tối đa nhưng nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện vẫn giữ tâm lý e ngại trong việc lập hồ sơ, làm thủ tục đăng ký công nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ.
"Một lưu ý là doanh nghiệp cần có ý thức tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình bằng cách đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Khi đã có những văn bằng bảo hộ ở cấp quốc gia thì thủ tục thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn ngại ngùng trong việc đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm của mình, điều này phần nào làm khó cho doanh nghiệp khi đăng ký thành doanh nghiệp khoa học công nghệ", ông Phạm Hồng Quất nói.
Một bất cập khác là chính sách hỗ trợ hiện nay mới chủ yếu tập trung vào “đầu vào” như hỗ trợ vốn, cơ sở ươm tạo, thay vì “đầu ra” (tức là tạo thị trường, đầu ra sản phẩm, khả năng thương mại hóa). Do đó, nhiều doanh nghiệp dù có tiềm lực nghiên cứu nhưng không tìm được “đất sống” để phát triển sản phẩm khoa học công nghệ.
Cần nhiều giải pháp cụ thể
Trước thực trạng trên, để tăng số lượng, chất lượng doanh nghiệp khoa học công nghệ, ông Phạm Hồng Quất cho rằng, cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh, triển khai hàng loạt các cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo hành lang thông thoáng cho phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
![]() |
Cần nhiều giải pháp đồng bộ để tăng cường số lượng, chất lượng các doanh nghiệp khoa học công nghệ. Ảnh minh hoạ |
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, đặc biệt là về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi đầu tư, đất đai cho doanh nghiệp khoa học công nghệ và các cơ sở ươm tạo.
Thứ hai, phải chuyển trọng tâm hỗ trợ sang đầu ra, tạo điều kiện thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Khi doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ ổn định, họ mới có động lực tái đầu tư vào nghiên cứu và phát triển. Ưu đãi thuế khi đó mới trở nên thực chất.
Thứ ba, cần có chính sách hỗ trợ đặc thù theo vùng, địa phương. Bộ Khoa học và Công nghệ đang phối hợp với các bộ, ngành để thiết kế chính sách riêng biệt cho từng địa phương, nhằm thúc đẩy hình thành các cụm doanh nghiệp khoa học công nghệ phù hợp với thế mạnh vùng miền.
Thứ tư, thúc đẩy mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ trong trường đại học, viện nghiên cứu theo Nghị định 109/2022/NĐ-CP, từ đó hình thành làn sóng thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Đây là hướng đi nhiều tiềm năng khi Việt Nam có lực lượng trí thức dồi dào, sáng tạo.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ doanh nhân khoa học công nghệ đủ mạnh, có kỹ năng quản trị, hiểu biết sâu về công nghệ và nhạy bén thị trường. Việc tổ chức các hoạt động đối thoại, vinh danh, truyền thông... sẽ góp phần khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong cộng đồng doanh nhân.
Có thể thấy, việc phát triển lực lượng doanh nghiệp khoa học công nghệ cần một sự kết hợp đầy đủ từ thể chế, tài chính đến thị trường và con người. Khi môi trường thuận lợi, rào cản được tháo gỡ và đầu ra sản phẩm rõ ràng, doanh nghiệp khoa học công nghệ sẽ thực sự trở thành lực lượng tiên phong trong hành trình đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại vào năm 2030.
Thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành nghiên cứu xây dựng Chương trình Ươm tạo và phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ đến năm 2030 nhằm khuyến khích doanh nghiệp thúc đẩy nghiên cứu phát triển công nghệ và tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách thí điểm phát triển mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu để triển khai Nghị định 109/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học… nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ để hình thành doanh nghiệp khoa học công nghệ. |